Một số phương pháp điều trị viêm mũi dị ứng

7/31/2016 10:36:00 CH |

Dùng thuốc nào cho hiệu quả và an toàn?

Viêm mũi dị ứng (VMDƯ) có thể xảy ra theo mùa (do thời tiết, do bụi của phấn hoa, cây cỏ) hay quanh năm (do bụi bặm, lông súc vật...) trên cơ địa dễ mẫn cảm. Không có thuốc đặc trị, nhưng nếu chọn, dùng đúng cách một số thuốc thì bệnh cũng sẽ ổn định trong thời gian dài.

Nhóm kháng histamin H1

Các thuốc nhóm này không trực tiếp ngăn sự tạo thành histamin nhưng thuốc có tác dụng hủy từng triệu chứng do histamin gây ra, làm giảm các triệu chứng của VMDƯ. Loại thế hệ cũ thường dùng là chlopheniramin, alimemazin, promethazin, diphenylhydramin, dimenhydrinat, cinarizin... Thuốc có nhược điểm gây buồn ngủ, rất bất tiện khi dùng ban ngày (không tập trung lao động học tập, dễ bị tai nạn khi điều khiển máy móc, phương tiện giao thông). Loại thế hệ mới thường dùng là loratidin, acrivastin, fexofenadin... có ưu điểm là ít gây buồn ngủ hơn, thường dùng dạng uống. Thuốc cũng có dạng xịt phối hợp kháng histamin phenyltolaxamin với centoxonium chủ yếu dùng cho trẻ em.

Nhóm gây co mạch

Loại thuốc uống: Các thuốc cường giao cảm dùng riêng lẻ (ephedrin) hay phối hợp trong thuốc cảm (pseudoepherein, phenylephrin, phenylpropanolamin) gây co mạch, giảm sung huyết, phù nề, ngạt mũi. Tuy nhiên, cũng do tính cường giao cảm mà chúng có thể gây ra các tác dụng phụ tăng huyết áp, nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, đau thắt ngực, nhức đầu, choáng váng, khó ngủ, chán ăn, run chân tay. Không nên dùng cho người có những bệnh như tăng huyết áp, đau thắt ngực do bệnh mạch vành, cường tuyến giáp, đái tháo đường.

Loại thuốc nhỏ, xịt mũi: Thường dùng naphazolin, xylomethazolin... Lúc đầu, do cơ chế cường giao cảm, có tác dụng co mạch tại chỗ, chống phù nề, đỡ nghẹt mũi ngay, dễ chịu. Về sau hiệu quả kém dần hay không còn, trái lại còn gây nghẹt mũi trở lại (gọi là phản ứng dội ngược). Khi dùng liều cao và/hoặc lâu dài, một phần thuốc qua mạch máu niêm mạc mũi thấm vào bên trong, gây các tác dụng phụ toàn thân giống khi uống, vì vậy chỉ nên dùng liều vừa đủ, một đợt chỉ dùng nhiều nhất là 7 ngày.

Trẻ em rất nhạy cảm với naphazolin, xylomethazolin, dễ bị co thắt mạch máu gây hoại tử niêm mạc mũi; còn gây co thắt mạch máu ở tim, não, da, đầu chi. Tuyệt đối không dùng hai loại thuốc này cho trẻ em.

Thuốc làm săn niêm mạc mũi: dung dịch natrichlorid 0,9% làm săn niêm mạc, gây co mạch, chống phù nề, đỡ nghẹt mũi, không độc, dùng cho người lớn và trẻ em bất cứ tuổi nào kể cả sơ sinh.

Nhóm corticoid

Thường dùng fluticason, beclomethason, budesonid được bào chế thành dạng thuốc hít. Khi hít thuốc tạo thành những hạt nhỏ li ti bám vào niêm mạc mũi, chỉ với một liều không lớn (so với liều uống) vẫn có hiệu lực chữa bệnh tại chỗ. Một phần thuốc có thể theo niêm mạc mũi vào bên trong nhưng vì số lượng ít, lại bị gan hóa giải nên không gây độc toàn thân như khi uống hay khi tiêm. Cũng có trường hợp dùng corticoid hít không hiệu quả vì không dùng đủ thời gian hay vì nghẹt mũi mà thuốc không đến nơi cần thiết.

Corticoid hít ức chế việc lành vết thương, vì vậy chỉ được dùng khi các tổn thương đường hô hấp (xây xước, rách, phẫu thuật) đã hồi phục. Thận trọng với bệnh lao tiềm ẩn vì thuốc ức chế miễn dịch làm bệnh nặng thêm. Dùng dạng hít lâu dài có thể bị gây bội nhiễm nấm Candida ở mũi, miệng (cần súc miệng, họng thật sạch sau khi hít hay dùng buồng hít để thuốc không đọng ở miệng, mũi). Không làm dây corticoid hít vào mắt (vì sẽ làm tăng nhãn áp, đục thủy tinh thể). Không dùng corticoid hít trị viêm mũi dị ứng cho trẻ dưới 12 tuổi; riêng với beclomethason không dùng cho trẻ dưới 6 tuổi.

Corticoid hít có thể gây đau đầu, viêm họng, kích ứng mũi, hắt hơi, ho, buồn nôn, nôn, chảy máu cam, phát ban da, ngứa, sưng mặt, sốc phản vệ nhưng ít gặp. Dạng thuốc hít dùng kéo dài kèm theo corticoid uống cũng có thể bị ngộ độc toàn thân. Phải thận trọng khi phối hợp với corticoid uống (chỉ phối hợp liều uống vừa đủ, đợt ngắn). Corticoid uống gây hại thai nhưng dạng hít chưa thấy gây hiện tượng này, vẫn có thể dùng cho người có thai.

Nếu VMDƯ có bội nhiễm có thể dùng corticoid hít phối hợp kháng sinh, song cần tính toán liều phối hợp cẩn thận để tránh corticoid làm giảm hiệu lực kháng sinh. Nếu nhiễm khuẩn nặng, cần tập trung dùng kháng sinh mạnh, sau khi khỏi bội nhiễm sẽ tiếp tục dùng corticoid.
Người bị VMDƯ không nên có thói quen dùng kháng histamin H1, thuốc co mạch liên tục (quá nhiều lần, quá số ngày qui định), để tránh độc, tránh tác dụng dội ngược làm cho viêm mũi nặng hơn, về sau rất khó điều trị. Trong số các thuốc trên, nên chọn corticoid hít dùng dự phòng, khi bị bệnh thì dùng sớm lúc còn nhẹ, dùng đủ thời gian cần thiết, bệnh sẽ ổn định.

DS. Bùi Văn Uy

Nguồn: Duocsitre

Xem chi tiết…

The Mongolian Deathworm

7/31/2016 10:17:00 CH |
Under the burning sand dunes of the Gobi desert there lurks a creature that is so feared by the Mongolian people they are scared even to speak its name. When they do, they call it the ‘Allghoi khorkhoi', which means ‘the intestine worm', because this fat, red, deadly snake- like monster looks similar to a cow's innards.

This giant worm, measuring up to four feet long, can kill people instantly. How it does it, no one knows. Some believe it spits a lethal toxin, others say it emits a massive electrical charge. However it kills, it does so quickly and can do it from a distance. We in the West have come to call this monster the ‘Mongolian Deathworm'.

Mongolian Nomads believe the giant worm covers its prey with an acidic substance that turns everything a corroded yellow colour. Legend says that as the creature begins to attack it raises half its body out of the sand and starts to inflate until it explodes, releasing the lethal poison all over the unfortunate victim. The poison is so venomous that the prey dies instantly.

Because Mongolia had been under Soviet control until 1990, very little was known about the Deathworm in the West. In recent years, investigators have been able to look for evidence of the creature's existence. Ivan Mackerle, one of the leading Loch Ness Monster detectives, studied the region and interviewed many Mongolian people about the worm. Due to the sheer volume of sightings and strange deaths, he came to the conclusion that the Deathworm was more than just legend. Nobody is entirely sure what the worm actually is. Experts are certain it is not a real worm because the Gobi desert is too hot an area for annelids to survive. Some have suggested it might be a skink, but they have little legs and scaly skin whereas witness accounts specify the worm is limb-less and smooth bodied. The most probable explanation is that it is a type of venomous snake. Although the native Mongolian people are convinced of the Deathworm's nature, it will take more years of research to satisfy the rest of the world's scientific community.




Zcomity team

Xem chi tiết…

Complete Evolution

7/31/2016 04:20:00 CH |
Charles Darwin was the first to conceive that species evolved - changed - over time, and the first to identify a driving force for that change - survival of the fittest. Darwin's theories instantly became the bedrock of biological thinking and survived unchallenged for a century.

Lynn Margulis was the first to discover and prove modification to Darwin's theory of evolution. In so doing, she filled in the one, nagging gap in Darwin's theory. More than any scientist since Darwin, she has forced a radical revision of evolutionary thinking. Like Copernicus, Galileo, Newton, and Darwin before her, Macgulls has uprooted and changed some of science's most deeply held theorems and assumptions.
Born in 1938, Lynn Margulis was raised on the streets of Chicago. Called precocious as a child, she entered the University of Chicago when only 14 years old. There she studied genetics and evolution.

Since Darwin's time the field of evolution has struggled with a problem called "variation". Researchers assumed that variation in an individual's DNA provided the "trial balloons" that natural selection kept or discarded. Those mutations that namre kept would slowly spread through the entire species. However, a nagging question could not be answered: What causes new variations in the individuals of a species? Theories centered on random errors that somehow rewrote sections of the DNA genetic code.

Even early in her career, it seemed obvious to Margulis that this was not what really happened. Margulis saw no hard evidence to support small, random mutations driving species evolution. Instead she found evidence for large, sudden jumps - as if evolution happened not as a slow, steady creep, but as sudden, dramatic adaptive advances. She saw that evolutionary change was not nearly so random as others believed.

Margulis focused on the concept of symbiosis - two organisms (or species) living cooperatively together for their mutual benefit. She found many elementary examples of two species choosing to live in intimate, interdependent existence. Lichens were composed of an algae and a fungus that, living as a single organism, survived better than either could alone. Cellulose-digesting bacteria lived in the gut of termites. Neither could survive without the other. Yet together they both thrived. Without a symbiotic merger, this arrangement could never have developed.

Margulis found symbiotic relationships abounding wherever she looked. Existing species sought out new cooperative, symbiotic relationships to improve their survivability. Human corporations did it. So did nature when, for example, a bacterium (a highly evolved life form) incorporated itself into another existing species to create a new symbiotic mutation and the species jumped forward in its capabilities.

Margulis studied Earth's early life forms and discovered four key symbioses that allowed the development of complex life on Earth: (1) a union between a heat-loving archae-bacterium and a swimming bacterium (a spirochete). Some of the original spirochete genes were then coopted. (2) to produce the organizing centers and filaments that pull genetic material to opposite sides of a cell before it splits. This allowed the creation of complex life forms. This new creature engulfed. (3) an oxygen-burning bacterium (once oxygen began to proliferate in the atmosphere). Finally, this swimming, complex, oxygen-processing one-celled organism engulfed. (4) a photosynthesizing bacterium. The result of this four-step evolutionary merger was all modern algae and plants!

Margulis showed that the cells of plants, animals, fungi, and even humans evolved through specific series of symbiotic mergers that represented large, instant steps forward for the involved species.

She published her landmark work in 1967, but biologists were skeptical until it was shown that mitochondria in all human cells have their own DNA, thus establishing that even human cells are the result of at least one symbiotic merger. This discovery spurred a generation of scientists who have searched for, found, and studied symbiotic mergers. They have found them everywhere.

Nine out often plants survive because of symbiotic mergers with root fungi that process crucial nutrients from the soil. Humans and other animals have whole colonies of cooperating bacteria and other bugs living in our guts to process and digest the food we eat. Without them, we would not survive. Without Margulis's discovery, Darwin's theory would have remained incomplete.




Zcomity Team

Xem chi tiết…

Planets Exist Around Other Stars

7/31/2016 04:03:00 CH |
One of the great questions for humanity has always been: Are we alone? Science has long asked: Are we the only solar system with planets - and the only one with planets that could support life? The discovery of planets around other stars makes it likely that other planets exist capable of supporting life. Of great importance to astronomers, the discovery of other solar systems lets them test their theories on the origin of planets and solar systems. The discovery of distant planets has fundamentally changed how we perceive our place in the universe.

In the sixth century B.C., Greek scientist Anaximander was the first to theorize that other planets must exist. In 1600 Italian priest and astronomer Giordano Bruno was burned at the stake by the Catholic Church for professing the same belief. American astronomers were actively searching throngh giant telescopes for planets orbiting other stars by late the 1940s.

Michel Mayor was born in 1942 and even as a child was fascinated by stars and astronomy. With his collaborator, Antoine Duquennoy, he joined the many astronomers searching for small objects in the universe. But Mayor searched not for planets, but for brown dwarfs - cool, dim objects thought to form like stars, but which failed to grow massive enough to support hydrogen fusion and thus never lit up with starry furnace and fire. Too big for planets, too small to become stars, brown dwarfs were a galactic oddity.

Astronomers, however, had a problem: telescopes can't see planets and brown dwarfs because they don't give off light. Instead, astronomers searched for slight side-to-side wobbles in the motion of a star caused by the gravitational tug of a large planet (or brown dwart).

Some tried to detect such wobble by carefully measuring the position of a star over the course of months or years. Others (Mayor included) looked for this wobble by using Doppler shift and measuring tiny shifts on a spectrograph in the color of the light coming from a star that would be the result of changes in the star's motion toward or away from Earth.

Following the death of Duquennoy in 1993, Mayor teamed with graduate student Didier Queloz and developed a new, more sensitive spectrograph to search for brown dwarfs. Their new spectrograph was capable of measuring velocity changes as small as 13 meters per second - about the same as the wobble in our sun's motion caused by Jupiter's gravitational tug.

But everyone assumed that such massive planets would take years to orbit a star (as they do in our system). Thus the wobble from a planet's tug would take years of data to notice. It never occurred to Mayor to use his new spectrograph and a few months' worth of time on a telescope to search for a planet. Beginning in April 1994, using the Haute-Provence Observatory in southern France, Mayor and Queloz tested their new spectrograph on 142 nearby stars, hoping to detect a wobble that would indicate a massive nearby object like a brown dwarf. In January 1995 one star, 51 Peg (the fifty-first brightest star in the constellation Pegasus) caught Queloz's eye. It wobbled. It wobbled back and forth every 4.2 days.

They tested the star's light to make sure it didn't pulse. They tested to see if sun spots might create an apparent wobble. The tested to see if 51 Peg puffed up and contracted to create the appearance of wobble. Nothing could account for 51 Peg's wobble except for a sizable orbiting object. From the amount of 51 Peg's wobble they calculated the mass of the object and knew it was too small to be a brown dwarf. It had to be a planet! They had discovered a planet outside our solar system.

By 2005, several hundred other planets had been located - gas giants speeding around Mercury-sized orbits; some rocky planets in cozy, not-too-hot-and-not-too-cold orbits; even some drifting free through space without a star to circle. Earth is certainly not alone. Mayor and Queloz were the first to discover proof of this spectacular reality.

Xem chi tiết…

Origins of Lile

7/31/2016 03:52:00 CH |
One of the greatest mysteries has long been: How did life first form on this planet? Theories abound. Bacteria not naturally found on Earth have been found in meteorites recovered in Antarctica. Possibly life here came from some other planet.

For over a hundred years, the most popular scientific theory has been that DNA molecules (life) first evolved from amino acids that were somehow spontaneously created in the soupy chemical mix of the primordial seas. It was just a theory - albeit a popular one - until Stanley Miller re-created the conditions of the early oceans in his lab and showed that amino acids could, indeed, form from this chemical soup. This was the first laboratory evidence, thc first scientific discovery, to support the theory that life on Earth evolved naturally from inorganic compounds in the oceans. It has been a cornerstone of biological sciences ever since.

By 1950 scientists had used a variety of methods to determine that the earth was 4.6 billion years old. However, the oldest fossil records of even tiny bacterial cells were no older than 3.5 billion years. That meant that Earth had spun through space for over a billion years as a lifeless planet before life suddenly emerged and spread across the globe.

How, then, did life start? Most agreed that life had to have emerged from inorganic chemicals. While this theory made sense, no one was sure if it could really have happened.

Through the late 1940s Harold Urey, a chemist at the University of Chicago, teamed with astronomers and cosmologists to try to determine what Earth's early environment looked like. They detennined that Earth's early atmosphere would chemically resemble the rest of the universe - 90 percent hydrogen, 9 percent helium, with the final 1 percent made up of oxygen, carbon, nitrogen, neon, sulfur, silicon, iron, and argon. Of these helium, argon, and neon don't react with other elements to form compounds.

Through experiments, Urey determined that the remaining elements, in their likely composition in Earth's early atmosphere, would have combined to form water, methane, amnionia, and hydrogen sulfide.

Enter Stanley Miller. In 1952 this 32-year-old chemist decided to test the prevailing theory and see if life could be produced from Urey's mix of chemical compounds. Miller carefully sterilized long sections of glass tubing, flasks, and beakers. He built what looked like a sprawling erector set of support poles in his lab and clamped flasks, beakers, and connecting glass tubes to this structure. He filled one large beaker with sterilized water. He filled other flasks with the three gasses Urey had identified as part of Earth's early atmosphere - methane, ammonia, and hydrogen sulfide.
Miller slowly boiled the beaker of water so that water vapor would rise into his enclosed "atmosphere" of a labyrinth of glass tubes and beakers. There it mixed with the three other gasses in swirling clouds in a beaker labeled "atmosphere".

Miller realized he needed an energy source to start his life-creating chemical reaction. Since other scientists had determined that the early atmosphere contained almost continual rolling thunder and lightning storms, Miller decided to create artificial lightning in his atmosphere. He hooked a battery to two electrodes and zapped lightning bolts across the "atmosphere" chamber. A glass pipe led from this chamber and past a cooling coil. Here water vapor recondensed and dripped into a collection beaker that was connected to the original water beaker.

After one wcek of continual operation of his closed-cycle atmosphere, Miller analyzed the residue of compounds that had settled in the collection beaker of his system. He found that 15 percent of the carbon in his system had now formed into organic compounds. Two percent had formed actual amino acids (the building blocks of proteins and of DNA). In just one short week, Miller had created the building blocks of organic life! Virtually all scientists were amazed at how easy it was for Miller to create amino acids - the buildftig blocks of life.

In 1953 the structure of the DNA molecule was finally discovered. Its structure fit well with how Miller's amino acid molecules would most likely combine to create longer chains of life. This was another bit of evidence to support the idea that Stanley Miller had discovered of how life on Earth began.

Xem chi tiết…

Fusion

7/31/2016 03:33:00 CH |

Fusion energy is the power of the sun. It is a virtually unlimited power source that can be created from hydrogen and lithium - common elements in the earth's crust. Fusion is clean, environmentally friendly, and nonpolluting. Fusion was theorized in the late 1910s and the 1920s. It was mathematically described in the l930s. It was finally discovered (demonstrated in the lab) in 1951. Fusion's technology was turned into the hydrogen bomb shortly thereafter.

But fusion has not yet been converted into its promised practical reality. It still works only in the lab. If this discovery can be converted into a working reality, it will end energy shortages for thousands of years.

Scientists had always thought that the sun produced heat and light by actually burning its own matter through normal combustion. In the nineteenth century, a few scientists (most notably British Lord Kelvin) argued that the sun could create heat from its own gravitational collapse - but that such a process could only last for a few million years.

Einstein's famous 1905 equation (E = mc2) allowed scientists to realize that even tiny amounts of matter could be turned into tremendous amounts of energy. In 1919 American astronomer Henry Russell described the physics and mathematical processes that would allow the sun to fuse hydrogen atoms into helium atoms and release vast amounts of energy in the process. The process was called fusion. This theory of how the sun works was confirmed in 1920 by astronomer Francis Aston's measurements.

The theory of fusion existed. But was fusion something that could be practically developed on Earth? In 1939 German physicist Hans Bethe described - in mathematical detail - the theory of how to create a fusion reaction on Earth. But there was a problem. Bethe's equations said that hydrogen atoms had to be raised to a temperature of over 100 million degrees C (180 million F) and had to be squeezed into a small space so that the protons in hydrogen nuclei would collide and fuse into helium nuclei. There was no known material or force that could accomplish such a feat.

Dr. Lyman Spitzer founded the Princeton University Plasma Physics Lab in 1948. He soon realized that the only way to contain a fusion reaction was with a high-energy magnetic field. He surrounded a donut-shaped tube that contained hydrogen gas with coils of wire to create a magnetic field that kept hydrogen atoms trapped while lasers heated them many millions of degrees.

But there was a problem. When he looped thousands of loops of wire down through the middle of the donut and up along the outside, it naturally packed the wires more densely on the inside of the donut than on the outside. That created a stronger magnetic field on the inside (center) of the donut-shaped tube than on the outside. Hydrogen atoms were pushed to the outside and flung at near light speed out of the tube. The fusion generator didn't work.

Then Spitzer discovered a marvelous remedy. He twisted the donut containing his hydrogen gas into a figure eight. As hydrogen sped through this looping tube, it spent part of each lap near the inside of the figure eight and part near the outside and so was kept from being pulled out of the tube by variations in the magnetic field.

In 1951 Spitzer completed work on this first hydrogen plasma fusion generator. He called it a stellarator - since it was like creating a star - and fired it for the first time for only a small fraction of a second, still not sure that superheated hydrogen plasma wouldn't turn into a hydrogen bomb.

For one glorious half-second the donut-shaped mass of gas blazed supernova bright, like a blinding sun burning at 70 million degrees Fahrenheit. Unimaginably bright and hot, the gas became a two-foot diameter, seething, explosively powerful pool of hydrogen plasma. Then it faded to dull purple, and, two seconds after it first ignited, turned back to black.

For one flickering moment, Lyman Spitzer had created a new star - almost. More important, he had discovered that fusion was possible on Earth.



Zcomity Team

Xem chi tiết…

Những đường kẻ Thần bí ở Nazca

7/31/2016 12:31:00 CH |
Vào Thập niên 1930, Khi việc đi lại bằng đường hang không ngày càng trở nên phổ biến hơn và được xem là cách dễ nhất để bang qua những đỉnh núi cao ngất ở Nam Mỹ, những hành khách bay trên vùng đồng bằng cao sừng sững của Peru đã được chào đón bởi một cảnh tượng thú vị. Phía dưới trên vùng đất khô cằn của xa mạc Nazca, khoảng 400km về phía nam Lima, và che phủ một diện tích khoảng 200 dặm vuông, là một loạt những lằn vẽ khổng lồ, nhiều vết trong số chúng có hình dạng của con người cũng như động vật, dù cũng có hang tram những đường kẻ chéo nhau, có khoảng cách ngẫu nhiên. Tất cả những người dân địa phương đều đã biết về những vết hằn kỳ lạ trên lớp đất bụi bặm, khi đạt một độ cao từ trên không, các tác phẩm thực sự của họ mới được phơi bài. Phát hiện này nhen nhóm lên mối quan tâm và các cuộc nghiên cứu vẫn còn tiếp tục kéo dài đến ngày nay: mọi người muốn biết tại sao những hình vẽ này ở nơi đó, và chúng thực sự có ý nghĩa gì. Bản thân những bức vẽ trên mặt đất này được tạo ra bằng cách sử dụng những hòn sỏi mịn riêng biệt tạo thành. Vì khu vực này có lượng mưa ít hơn 25mm mỗi năm, và tác động của gió lên bề mặt của nó là rất nhỏ, nên hình dạng của các đường kẻ vẫn tồn tại qua nhiều thế kỷ. Có hơn 100 hình phác thảo của động, thực vật, bao gồm một con khỉ, nhện chim ruồi, và thậm chí theo nhiều người nghĩ rằng còn có cả người ngoài hành tinh.

Đường kẻ có hình dạng kỳ lạ chỉ có thể nhìn thấy từ trên không

Vô số những đường kẻ thẳng tạo thành hình vuông, tam giác, hình thang và tất cả các dạng góc kỳ lạ. Chúng dường như trải theo những hướng và độ dài ngẫu nhiên, thậm chí có đường trải dài đến 14 km trên bề mặt sa mạc. Hơn 300 năm về trước, khu vực này được định cư bởi tộc người Nazca, những người phát triển vượt trội về các kỹ thuật gốm, dệt, kiến trúc. Họ đã tạo ra hệ thống tưới tiêu hiệu quả và trồng trọt thành công trong môi trường sống khắc nghiệt. Người ta tin rằng người Nazca đã vẽ ra những đường kẻ này, dù không ai xác định được chính xác thời điểm chúng được tạo ra. Cahauchi một thành phố gần đó, nằm tại khu vực phía nam của các đường kẻ này, gần đây được xem có thể là quê hương của những người vẽ ra đường kẻ Nazca. Các chuyên gia có thể suy luận rằng đại đa số người dân Nazca đã rời khỏi thành phố này sau hang loạt thảm họa thiên nhiên, còn số ít những người ở lại đã bị giết chết hoặc đuổi đi bởi những người Tây Ban Nha xâm lược. Nhưng tại sao một chủng tộc lại muốn vẽ ra những bức tranh mà người ta chỉ có thể hiểu được khi nhìn từ trên không. Có lẽ giả thuyết nổi tiếng nhất được đưa ra bởi tiến sĩ Maria Reiche. Bà đã cố gắng chứng minh rằng những đường kẻ này tương ứng với nhiều ngôi sao xuất hiện trên trời và các biểu tượng động vật thật ra là người dân bản địa mô tả các chồm sao. Nhưng quan điểm của bà không được nhiều người chấp thuận bởi một thực tế là không ai xác định được thời gian những đường kẻ này được tạo ra. Nằm trong mối quan hệ của Trái đất với sự chuyển động của vũ trụ, một đường kẻ bất kỳ theo hướng nào đi nữa cũng sẽ tương ứng với một thực thể thiên văn tại một thời điểm nào đó. Sauk hi dành cả cuộc đời nghiên cứu say mê, Bà Reiche qua đời và được chon ở thung lung Nazca vào năm 1998. Suốt thập niên 1960, nhiều nhà văn như Louis Pauwels, Jacques Bergier và Erich von Daniken đã táo bạo cho rằng những đường kẻ này là đường bang hay nới hạ cánh cho những du khách ngoài hành tinh. Một số giả thuyết khác cho rằng chúng là lịch thiên văn, rằng chúng được sử dụng cho các nghi lễ tôn giáo, hay chúng tượng trưng cho nguồn nước dưới long đất. Một chuyên gia cho rằng, trước khi các công cụ dệt được phát minh, những người đàn ông đứng dọc theo các đường kẻ này để giữ chỉ, giống như một khung dệt vải người khổng lồ. Nhưng lý do tại sao hình ảnh được thiết kế để được nhìn thấy từ trên không vẫn chưa được giải đáp. Có một giả thuyết thú vị khác cho rằng người Nazca là những phi công đầu tiên của nhân loại, đã phát minh ra kinh khí cầu bay bằng khí nóng thô sơ.

Sự hiểu biết nhiều hơn của chúng ta về văn hóa của người Nazca tiến bộ cùng những khám phá về khảo cổ, nhưng ngày nay, số phận của các đường kẻ này đang trong tình trạng hiểm nguy. Trong những năm gần đây, nhiều cơ quan quảng cáo, chính phủ đã cho khắc khẩu hiệu trên những đường kẻ này, trong khi cơn sốt khai thác mỏ vàng và đồng trong khu vực cũng góp phần làm xóa đi những tác phẩm tuyệt vời bằng các hoạt động công nghiệp cũng như giao thong. Sự gia tăng dân số trong khu vực đã kéo theo sự gia tăng của các nhu cầu tiện nghi cơ bản, nghĩa là các nhà cung cấp dịch vụ công cộng hiện nay đang lắp đặt đường dây cáp, ống nước ở khắp nơi. Cùng với tác động của thời tiết, điều này có nghĩa là những tác phẩm bí ẩn nhất của một tộc người cổ đại đang có nguy cơ bị xóa bỏ vĩnh viễn khỏi lịch sử loài người.





Thế Anh
www.Zcomity.com
Xem chi tiết…

Tiến Sĩ " Mya Le Thai " Người Việt Nam Phát minh Ra loại Pin Siêu Bền, Một Bước Đột Phá Trong Công Nghệ

7/31/2016 09:37:00 SA |
Zcomity - Các nghiên cứu sinh thuộc trường Đại học Irvine California đã phát minh ra một điện cực dựa trên dây nano có thể được sạc hàng trăm ngàn lần, giúp chúng ta tiến đến gần một công nghệ pin không cần phải thay thế. Công trình mang tính đột phá này có thể dẫn đến nền công nghiệp thương mại Pin với tuổi thọ kéo dài đáng kể cho máy tính, điện thoại thông minh, các thiết bị, ô tô và cả tàu Vũ trụ không gian.

Từ lâu, Các nhà khoa học đã tìm cách sử dụng các dây nano trong pin. nó mỏng bằng 1/1000 sợ tóc của con người, chúng có tính dẫn điện tốt và có diện tích bề mặt lớn cho việc lưu trữ và chuyển giao của các electron. Tuy nhiên, những sợi nano này là vô cùng mỏng manh và không bền vững để sạc lại nhiều lần trong một chu kỳ. Trong một loại pin lithium-ion thông thường, các sội nano này sẽ dãn ra và vỡ vụn, dẫn đến rạn nứt. Các nhà nghiên Sinh UCI đã giải quyết vấn đề khó khăn này bằng cách bọc một dây nano vàng trong một vỏ dioxide mangan và sử dụng chất điện phân làm bằng một loại Plexiglas giống kem để phủ lên tập hợp của các sợi Nano này. Sự kết hợp là đáng tin cậy và giúp hệ thống pin chống lại sự rạn nứt của các sợi nano siêu mỏng trong quá trình sạc lại. Trưởng nhóm nghiên cứu là tiến sĩ Mya Le Thai, cô đã thử nghiệm sạc đi sạc lại lên đến 200.000 lần trong ba tháng mà không phát hiện sự suy giảm của công suất pin, Kết quả này sau đó dược công bố trên tạp chí khoa học American Chemical Society’s Energy Letters


Theo giáo sư Reginald Penner chủ nhiệm bộ hóa học UCI cho biết. Đây là công việc đòi hỏi sự nổ lực với một xác suất thành công là rất thấp. "Mya đã thực hiện điều này, cô cho phủ toàn bộ thứ này với một lớp gel rất mỏng và bắt đầu sạc nó", giáo sư Penner nói. "Cô đã phát hiện ra rằng chỉ bằng cách sử dụng loại gel này, cô có thể sạc đi sạc lại một cục pin hàng trăm ngàn lần mà năng suất của nó không hề suy giảm."
Xem video:

"Thật ngoạn mục", ông cũng nói thêm "bởi thông thường, phần lớn các thí nghiệm này đã kết thúc ở những lần sạc ấn tượng là 5.000;  6.000 hoặc 7.000 chu kỳ ."

"Các điện cực được bao phủ lớp gel này sẽ tốt hơn nhiều, giúp nó trở nên bền vững hơn", Tiến Sĩ Mya Le Thai nói. "Nghiên cứu này chứng minh rằng khả năng cho một loại pin điện cực dây nano siêu bền, chúng tôi có thể làm nó trở thành hiện thực."

Nghiên cứu được tiến hành phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Nanostructures for Electrical Energy Storage Energy Frontier Research Center tại Đại học Maryland, với sự tài trợ từ cơ quan Basic Energy Sciences của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ.


Thế Anh

Xem chi tiết…

Quái Vật đáng sợ trên hồ Okanegan

7/31/2016 07:50:00 SA |
Hình ảnh hiếm hoi về quái vật tại hồ Okanegan, hồ dài 160 km sâu 305m

Những tên tội phạm bị truy nã thường có một phần thưởng đi kèm với đầu của họ. Ngày nay, những quái vật bí ẩn dường như cũng là mục tiêu để nhiều người tìm kiế gải thưởng. Từ tháng 8/2000 đến tháng 9/2001, ba công ty quanh hồ Okanegan đã hứa tặng một triệu USD cho bất kỳ người nào tìm thấy được bằng chứng xác thực, sống động chứng minh được sự tồn tại của quái vật  được kể trong truyền thuyết. Tội ác mà sinh vật này gây ra rất khó diễn tả, dù có những câu chuyện về việc nó bắt giữ và giết chết một số người dân địa phương tội nghiệp trên hồ. Không thể phủ nhận rằng Opogopo là thủ phạm liên tục gây ra nỗi lo âu cho người dân. Hồ Okanegan nằm ở quận British Columbia. Nó dài khoảng 160 km và có những chỗ sâu đến 305m. Bộ lạc Salish bản địa ở nơi này tin vào một con rắn khủng khiếp mà họ gọi là “N’ha-a-tik”, nghĩa là thủy quái. Họ nói quái vật này có một cái hang ẩn nấp gần giữa hồ, và họ thường dâng lễ vật hiến tế để làm vừa long nó. Nhiều người định cư châu Âu ban đầu còn chế giễu những truyền thuyết kiểu này, nhưng theo thời gian, quái vật Ogopogo đã thiết lập vị trí của mình trong tâm chí của nhiều người dân sống gần đó. Từ giữa thập niên 1800, những người nhập cư da trắng đã bắt đầu thấy một hiện tượng kỳ lạ trong hồ. Một trong những câu chuyện đầu tiên kể về một người đang đi ngang qua hồ với hai con ngựa được cột dây đang bơi phía sau. Một nguồn sức mạnh kỳ lạ đã kéo hai con ngựa xuống dưới, và người đàn ông chỉ có thể tự cứu mình bằng cách cắt dây trói ngựa ra khỏi người mình. Nhân chứng kể lại, sinh vật này dài hơn 15m, với lớp da xanh lục, một vài cái bứu và cái đầu to lớn giống ngựa. Một số người đã cố gắng đến gần để quan sát khi nó ăn thực vật ở dưới nước, họ nói quái vật Ogopogo còn có chân hoặc vây nhỏ. Nó có thể là an hem với quái vật ở Hồ Loch Ness ở Mỹ.
 Hồ Okanegan

Hầu hết sự xuất hiện của nó đều diễn ra quanh thành phố Kelona, gần trung tâm của hồ, và rất nhiều người nhìn thấy quái vật này đều cho rằng nó dường như sống trong khu vực xuất hiện truyền thuyết của dân bản địa.



Tom Selleck
Xem chi tiết…

Bí ẩn về Sinh vật - Dã Nhân Chồn Hôi vẫn chưa có lời giải đáp

7/29/2016 08:23:00 CH |

Giữa thập niên 1970, một vài năm sau khi đoạn phim về ‘’Big Foot “ (Chân Lớn) được công bố rộng rãi, cảnh sát Florida nhận được hang loạt tin đồn khẳng định rằng có một loài sinh vật tương tự đang sống ở vùng đầm lầy của bang. Nhiều nhân chứng mô tả quái vật này giống như một con vượn người đứng thẳng, cao hơn 2m và được che phủ bởi một lớp long mỏng màu nâu. Nhìn bề ngoài, nó giống với quái vật chân lớn, nhưng quái vật ở Florida này có đặc điểm đặc biệt- nó có mùi nồng pha trộn giữa trứng vữa, phân bó và chuồng voi. Nhìn bề ngoài. Một nhân chứng nói rằng nó có mùi giống như một con chồn hôi vừa mới lăn lộn trong xe chở rác. 



Nên nó được đặt tên là “Dã nhân chồn Hôi”. Sau nhiều lần xuất hiện rầm rộ vào lúc đầu, hiện tượng Dã Nhân Chồn Hôi cũng dần lắng xuống. Một số hình ảnh, đoạn phim, khuôn đúc, và mẫu tóc đã được thu thập, nhưng Dã Nhân Chồn Hôi đột ngột ngừng xuất hiện. Có giả thuyết cho rằng nó đã bị Quân đội Mỹ bắt được và giam ở vườn quốc gia Everglades. Truyền thuyết ở khu vực này nói rằng con quái vật đã chốn thoát bằng cách phá tường bê tong và trở về với vùng đầm lầy của mình. Một số người thấy Dã Nhân Chồn Hôi tin rằng nó cư trú tại Vườn bảo tồn Big Cypress, nhưng không ai trong số 70 nhân viên bảo vệ khu vực nhìn thấy nó. Tuy nhiên, trong vài năm về trước, hình ảnh mới của quái vật này đã xuất hiện ở Ochapee, Florida.

Một nhóm khách du lịch đang tham quan Everglades đã thấy một sinh vật giống Vượn người di chuyển quanh bờ đầm lầy gần đó. Sau đó, người ta thấy nó bang qua con đường bên ngoài ngôi nhà của viên chỉ Huy đội cứu hỏa ở địa phương. Người đàn ông đã chụp lại hình con vật đó khi nó về lại vùng đầm lầy. Tấm hình cho thấy một quái vật long lá khổng lồ, nhưng ngay cả người đàn ông chụp hình nó cũng nói mình nghĩ sinh vật này có thể là một người cải trang khéo léo trong bộ quần áo đóng giả Vượn người. Với niềm tin như thế từ nhiều nhân chứng trực tiếp, liệu có thể hy vọng về sự tồn tại của Dã nhân Chồn Hôi ?.


Zcomity Team
www.Zcomity.com





Xem chi tiết…

Bí Ần Vụ Nổ Ở Tanguska Siberia Vào Năm 1908

7/29/2016 03:33:00 CH |
Vào lúc 7 giờ 17 phút ngày 30/1908, trong bầu khí quyển bên trên Siberia khoảng 8 km xảy ra một vụ nổ vô cùng lớn. Nó khiến cho cả khu rừng bên dưới bị cháy loan lổ và làm rạp cây cối trong bán kính hơn 30km. Nó làm mọi người té xuống đất và làm vỡ kính cửa sổ cách đó 80km. cách xa nơi đó 150 km, nhiều nhân chứng kể họ đã nhìn thấy vụ nổ tạo một đám mây khói đen khổng lồ đi kèm với tiếng vang đinh tai. Âm thanh đinh tai nhức óc này cũng được những người cách đó gần 300km, và nhiều thiết bị khoa học trên toàn thế giới đã ghi nhận được những sự cố kỳ lạ ở phía bắc nước Nga. Đến ngày nay, người ta có thể tìm thấy ở khu vực này có nhiều dạng phát triển kỳ lạ của động, thực vật.

Nhưng điều gì thực sự đã xảy ra ở Tunguska vào ngày hôm đó?. Nhân chứng gần nhất đứng cách trung tâm vụ nổ 40 km là những người chăn tuần lộc. Họ đang ngủ trong lều thì một nguồn năng lượng cực mạnh đã ném họ vào không trung. Một người đàn ông được tường thuật lại là đã chết, còn những người khác bị bất tỉnh. Khi tỉnh lại, họ thấy khu rừng xung quanh bị tàn phá và đang cháy âm ỉ. Những nhân chứng khác tại một khu thương mại ở Vanavara, cách vụ nổ khoảng 80 km về phía nam, kể rằng mình đã nhìn thấy bầu trời bị xé toạc ra lam hai, phần ở phía bắc bị bao phủ trong lửa.

Vụ nổ trên bầu trời phát ra bức xạ nhiệt tác động đến họ quá nóng đến nỗi họ cảm thấy như quần áo mình bị cháy. Nó ném họ bay lên không trung 6m, và khi định thần lại, một tiếng nổ khủng khiếp vang lên, sau đó có âm thanh giống như trận mưa đá đang rơi xuống mặt đất. Những nhấn chứng ở xa hơn cũng thấy tiết mục ấn tượng của hiện tượng này.

Cư dân ở những thị trấn hẻo lánh đã thấy một trái “banh lửa” khổng lồ với cái đuôi sang óng ánh bay ngang qua bầu trời ban mai. Nhiều người tin đây là sự mặc khải vĩ đại cuối cùng. Sibir, một tờ báo địa phương, đã tường thuật lại những gì được thấy từ làng Nizhne- Karelinsk, cách vụ nổ khoảng 320km: Người dân trong làng thấy một vật thể chiếu sang rực rỡ cùng với ánh sang trắng có màu xanh. Nó di chuyển theo đường thẳng về phía dưới khoảng 10 phút. Vật thể này có hình dạng giống tẩu thuốc. Bầu trời quang đãng, nhưng ở phía dưới chân trời nơi vật thể sang rực này được nhìn thấy, có một đám mây đen. Không khí rất nóng, khô và khi vật thể sang rực ấy đến gần mặt đất, nó dường như tan biến thành bụi cát; ở nơi nó xuất hiện, người ta thấy một đám mây khói đen khổng lồ và nghe một tiếng nổ vang trời, không giống như tiếng sấm, mà giống như tiếng đá rơi hay tiếng súng nổ. Tất cả các tòa nhà đều lắc lư, rung động, cùng lúc đó, một ngọn lửa xuất hiện xóe toạc đám mây. Những phụ nữ lớn tuổi trong làng khóc lóc, mọi người đều nghĩ rằng ngày tận thế đang đến gần.

Các quan chức của Nga không thể cử được bất kỳ người nào đến kiểm tra hiện tượng này cho đến tháng 3/1927, khi Leonid Kulik được viện khoa học Liên Bang Nga Chọn để tìm hiểu điều già đã xảy ra. Kulik đến khu vực này và thấy tất cả những hang cây đều bị đổ rạp trong một bán kính lớn. Anh chụp hình và khảo sát khu vực, nhưng không tìm thấy được bất kỳ mảnh vở hay mẫu thiên thạch nào cả. Có vẻ như thứ gây ra sự kiện phi thường này cũng tự bốc hơi. Sự thiếu vắng những tàn tích xác thực khiến cho người Nga hoang mang. Họ cảnh thấy rằng chỉ có những tảng đá khổng lồ ngoài không gian mới có thể gây ra những tác động đó. Sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật Bản trong chiến tranh thế giới II, những tấm ảnh so sánh sự hoang tàn của Hiroshima và Nagasaki với khu vực gần tâm của vụ nổ Tunguska cho thấy nhiều điểm tương đồng. Lời kể của nhiều nhân chứng cũng củng cố them cho khả năng hiện tượng ở Nga là một vụ nổ hạt Nhân. Tuy nhiên, vào năm 1908, vũ khí hạt nhân không hề tồn tại, một vụ nổ hạt nhân sẽ tàn dư chất phóng xạ nhưng thứ này lại không để lại dấu vết gì, nên một số người giả thuyết rằng vụ nổ này bị gây ra bởi một đĩa bay của người ngoài hành tinh rơi xuống trái đất.
Phản vật chất
Gỉa thuyết này ngày càng bị phản đối mạnh mẽ, và được thay thế bởi một số hiện tượng phản vật chất hay một hố đen nổ tung trên bầu trời Siberia. Kiến thức về khoa học của chúng ta có thể giúp suy luận ra rằng vụ nổ này tương đương với một loại vũ khí hạt nhân với sức công phá 40 triệu tấn thuốc nổ. Nhưng giả thuyết của con người về nguyên nhân gây ra sự kiện phi thường này, dù nó có liên quan đến đĩa bay hay những sinh vật khác trong thiên Hà, cần phải có được sự hiểu biết mà ta vẫn chưa nắm bắt được.
Khối năng lượng Phản Vật Chất
(Note: về sau các nhà khao học cho rằng đây là một vụ nổ Anti- Matter phản vật chất, với sức mạnh vô song, nó có sức công phá gấp trăm lần Bom hạt nhân, phản vật chất cũng giống vật chất thông thường, ngoài việc chúng có điện tích trái dấu, thay vì chúng có các electron mang điện tích âm và Proton mang điện tích dương thì Phản vật chất có các electron mang điện tích dương Proton mang điện tích âm nên khi đó phản vật chất và vật chất thông thường gặp nhau chúng lập tức triệt tiêu nhau và giải phóng năng lượng với hiệu xuất 100%.)


Thế Anh
www.Zcomity.com
Xem chi tiết…

Lực lượng Phòng Vệ IDF Của Israel Và Lính Thủy Đánh Bộ Mỹ Bí Mật Tiến Hành Tập Trận

7/29/2016 11:11:00 SA |
Cơ sở huấn luyện Ze'elim của IDF
Nhằm đối phó với Hồi giáo ISIS, một cuộc tập trân chung giữa lực lược phòng vệ Israel IDF và Thủy Quân Lục chiến Hoa Kỳ US Marine được tiết lộ.



Tuần trước, IDF và các lực lượng đặc biệt Mỹ tập hợp cho một bài tập mở rộng bí mật trong sa mạc Negev của Israel. Trong cuộc tập trận chung, những người lính chiến đấu được mô phỏng một tình huống tác chiến đô thị và đổ bộ của lực lượng này: là một phần các nỗ lực của Mỹ trong việc chống lại ISIS tạiTrung Đông.

Cuộc tập trận chung nhằm cung cấp cho Không quân Israel, Hải quân, và các đơn vị đặc nhiệm Special Forces phối hợp với Hải quân Mỹ. Các lực lượng đặc biệt  Special Forces Mỹ đang học hỏi kinh nghiệm tác chiến chống khủng bố của IDF, mà sau đó họ sẽ thực hiện đối với ISIS tại Trung Đông.
Lính ADF bên trái và US marin bên phải

Trong bài tập này, quân đội tiến hành thả quân bằng máy bay trực thăng vào phòng tuyến của kẻ thù, tác chiến đô thị ở trên và dưới mặt đất và chiến tranh du kích. Sau đó, họ thực hành giải cứu các binh sĩ bị thương sâu bên trong phòng tuyến kẻ thù và điều hành cả hai hệ thống y tế và quân đội '.

Ngoài ra, các lính đặc nhiệm được mô phỏng cả hai tình huống chiến đấu ban ngày và ban đêm tại cơ sở đào tạo Ze'elim của IDF, được xây dựng rất giống với thành phố của người Palestine.



Thế Anh 

Xem chi tiết…

Donald Trump từng bán căn Biệt thự cho Một tỷ Phú Nga với giá 99 triệu USD

7/28/2016 04:29:00 CH |
"Tôi đoán là có lẽ tôi bán các căn hộ cho người Nga, được không?"khẳng định hôm thứ Tư rằng ông chỉ giao dịch với một tỷ phú Nga là khi ông đã bán một căn biệt thự cho ông này trị giá gần 100 triệu USD.

Trump khi được hỏi về Nga trong một cuộc họp báo hôm thứ tư do có nghi ngờ rằng Nga đứng sau vụ hack email của Ủy ban Quốc gia Dân chủ trong một nỗ lực để giúp chiến dịch tranh cử của ông Trump. FBI vẫn đang điều tra nhưng chưa xác định được các tin tặc là ai.
"Không, tôi chẳng có gì với Nga cả", Trump nói với một phóng viên ở Doral, Florida. "Bao nhiêu lần tôi phải nói điều đó? anh có phải là người đàn ông thông minh không? Tôi không có gì với Nga hết, tôi chẳng liên quan gì với họ."

"Tôi phải làm gì với người Nga đây? Bạn biết là lần gần đây nhất tôi đã đến Nga, tôi đã mua một ngôi nhà từ vài năm trước tại Palm Beach, Florida ... giá 40 triệu USD và tôi bán nó cho một người Nga với giá 100 triệu USD bao gồm tiền hoa hồng và  môi giới. "
Maison de L'Amitie là một bất động sản bên bờ biển khổng lồ ở Palm Beach, Florida. Ngôi Biệt thự này rộng 24914 m vuông nằm trên 6,2 mẫu Anh - với 475 feet của bãi biển cát đối mặt với Đại Tây Dương. Nó thuộc về Abraham Gosman, một triệu phú trong lĩnh vực Chăm sóc sức khỏe trên khắp cả nước cho đến khi ông này bị phá sản. 

Trong một cuộc đấu giá năm 2004, Trump nhanh chóng mua lại Biệt thự này trong lần bán thanh lý tài sản lần thứ 7 của Gosman với 41 triệu USD, theo hồ sơ tài sản.
Bốn năm sau đó, Trump đã bán lại căn biệt thự với giá 95 triệu USD.
Ảnh: CNN MONEY
Về mặt pháp lý, trong giao dịch này ông Trump bán tài sản này cho công ty quản lý bất động sản County Road Property LLC. Nhưng Người mua thực sự là nhà tỷ phú Nga Dmitry Rybolovlev.

Rybolovlev thừa nhận đã mua nó nhờ người môi giới vào năm 2008 thông qua một công ty bất động sản .

Carol Digges, người môi giới ở South Florida đã cho Rybolovlev một chuyến quan sát các bất động hai năm trước khi ông mua lại nó, cho biết tỷ phú Nga chưa bao giờ chuyển đến ở. Trong thực tế.
"Anh ấy đã mua nó và không bao giờ sống trong nó," cô cho biết.

Người Nga đang có kế hoạch phá bỏ ngôi biệt thự, theo kế hoạch trong hồ sơ quy hoạch của Palm Beach.
Đây có lý do của ông Rybolovlev để giữ một tài sản có giá trị từ xa. Ông đã tham gia vào những gì mà người ta gọi là vụ "ly hôn của thế kỷ", một cuộc chiến 7 năm trước, vợ của ông đã thắng khi một tòa án Thụy Sĩ trao quyền sở hữu 4,5 tỷ USD và sau đó ông đã định cư lặng lẽ.

Trump chỉ giao dịch bởi vì nó rõ ràng liên quan đến việc giúp ông kím được nhiều tiền hơn từ người Nga nhưng điều này không chính xác khi cho rằng ông có dính liếu với Vladimir Putin, như Đảng Dân chủ muốn miêu tả.

Rybolovlev là một nhà tài phiệt Nga. Ông đã kiếm được hàng tỷ USD bằng cách giữ cổ phần lớn trong các công ty phân bón Uralkali của Nga sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Nhưng ông là người không hài lòng với chính phủ Nga. Ông đã bị nhốt một năm trong nhà tù của Nga vào giữa những năm 1990 về tội thuê một kẻ ám sát - cho đến khi ông được chứng minh vô tội và được phóng thích. Và rõ ràng Trump đang bắt đầu khó chịu về các câu hỏi đề cập đến Nga.
"Đó là một số năm về trước, Tôi đoán là có lẽ tôi đã bán các căn hộ cho người Nga, như vậy có được không?", Trump cho biết tại buổi họp báo, nói về các thỏa thuận với Rybolovlev.

Thế Anh 
Nguồn:  CNN 
Xem chi tiết…

Zombie xác sống đáng sợ là có thật ở Hati

7/27/2016 09:17:00 CH |
Trung tâm của thế giới Zombie là hòn đảo Hispaniola, ở Tây Ấn. Nhiều tá điền ở đây tin rằng các phù thủy độc ác được gọi là ”bokor” có sức mạnh đem người than đã chết của họ trở lại cuộc sống giống như những hình nhân vô hồn, không có lý trí. Người ta nói những  “bokor” sau đó sẽ sử dụng các nạn nhân này làm nô lệ cho mình. Quan niệm về Zombie này của người dân vùng Caribe thật sự có tồn tại, và người ta có thể thấy những Zombie đi trên đường phố của quần đảo. Một số người biết rõ người thân hay bạn bè của họ bị biến thành Zombie, nên để phòng ngừa điều này, nhiều tá điền nghèo đã đặt những tản đá nặng lên trên quan tài của người thân đã mất để “ Bokor” không thể đánh cắp xác của họ. Thực tế của hiện tượng này rất đáng sợ, dù nó không liên quan đến bất kỳ sức mạnh nào từ thế giới ma quỷ. Các chuyên gia tâm thần xác nhận những ai được người dân Hati xem là Zombie thực sự gặp phải rất nhiều vấn đề rối loạn tâm thần.

Một số nhà phê bình cho rằng quan điểm về Zombie chính là cách mà văn hóa Hati dùng để giải thích cho những người có thể chất ốm yếu tự nhiên. Nhưng một số người khác nghĩ rằng hiện tượng này là một thứ gì đó đáng sợ hơn nhiều. Người ta tin bằng cách sử dụng nguồn vật liệu tự nhiên của bản địa, các “Bokor” người Hati có thể gây ra những bệnh tâm thần này. Bằng cách sử dụng hóa chất có tên là tetrodotoxin, một độc tố thần kinh được tìm thấy trong cá Nóc, nạn nhân của “Bokor” có thể bị rơi vào trạng thái tê liệt, hôn mê sâu. Gia đình của nạn nhân nghĩ rằng họ đã chết, nên đem đi chon. Sự thiếu Oxygen trong quan tài góp phần làm tổn thương não, và “Bokor” đến để đánh cắp xác, sau đó nạn nhân được hồi sinh nhờ một thực vật được gọi là cà độc dược, hay “dưa thay ma”, thảo dược này còn được sử dụng như thuốc điều chỉnh tâm thần. Những chất độc khác, như chất độc được tìm thấy ở trong cóc mía, có thể được chiết ra, đóng vai trò làm chất gây ảo giác và chất gây tê cho nạn nhân xấu số. Nó khiến họ rơi vào trạng thái bị thôi mien vĩnh viễn, vô cảm trước các cơn đau vật lý, và đóng vai trò như lời cảnh báo đến các cư dân khác nên cảnh giác trước sức mạnh của các Bokor.


Zcomity Team


Xem chi tiết…

Người Phụ Nữ Mập Nhất Hành Tinh Đã Giảm 800 Ib (362,87kg)

7/27/2016 08:23:00 CH |
Với trong lượng lên đến 1.036 lb (470 kg), cô Mayra Rosales đang giữ kỷ lục là người phụ nữ lớn nhất trên thế giới vàmột trong những người còn sống nặng nhất Hành tinh, nhưng giờ đây Mayra Rosales đã thay đổi khi trọng lượng đã giảm.



trông rất khác so với bản thân mình trước đây, từng được xem là người phụ nữ béo phì có biệt danh "sát thủ khổng lồ" . Vào năm 2008! tình trạng béo phì của cô đã khiến mình trở nên nổi tiếng đặc biệt sau khi cô bị cáo buộc đè chết cháu trai của mình. Cô thú nhận đã vô tình ngã vào đứa bé làm cậu ngạt thở cho đến chết vì khi đó cô không thể di chuyển. Cô được xử vô tội sau khi các nhà điều tra phát hiện ra kẻ sát nhân thực sự chính là chị của Mayra, mẹ ruột của đứa bé.

Kích thước cơ thể của Mayra khiến cô không thể di chuyển được


Mayra Rosales khi giảm từ 430 kg xuống còn 91 kg


Nguyễn Thế Anh
www.Zcomity.com

Nhấn nút " Like " hoặc " Share " bên dưới bài viết là ủng hộ nhóm chúng tôi cung cấp nhiều thông tin hơn.

Xem chi tiết…

Các Nhà Khoa Học Bị Sốc Do Nhiệt Độ Trái Đất Thay Đổi Nhanh Hơn Dự Đoán

7/27/2016 07:27:00 CH |
Nhiệt độ được ghi nhận trong nửa đầu năm 2016 đã khiến các nhà khoa học ngạc nhiên mặc dù những sự kiện thời tiết cực đoan đang lan rộng và trở nên thường xuyên hơn và mãnh liệt hơn, giám đốc Chương trình Nghiên cứu Khí hậu Thế giới cho biết. Năm nay Trái đất đang trên đà nóng nhất trong lịch sử trong tháng sáu đã đánh dấu tháng thứ 14 liên tiếp nhiệt độ nóng kỷ lục, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đã cho biết hồi tuần trước .Báo cáo cho biết, nhiệt độ được ghi nhận chủ yếu ở Bắc bán cầu trong sáu tháng đầu năm nay, cùng với quá trình tan băng nhanh chóng ở Bắc Cực kỷ lục"  mức độ cacbon dioxit gây nhiệt, là nguyên nhân chính đẩy nhanh sự thay đổi khí hậu toàn cầu.

Trong một thông báo bổ sung vào hôm thứ ba, các cơ quan của Liên Hợp Quốc cho biết sẽ kiểm tra xem liệu nhiệt độ 54 độ C (129 độ F) báo cáo tại Kuwait vào ngày thứ Năm vừa qua là một đỉnh cao mới ở bán cầu Đông và châu Á. "Những gì tôi quan tâm nhất là chúng tôi đã không lường trước về sự gia tăng nhiệt bất thường hiện nay," David Carlson, giám đốc chương trình nghiên cứu khí hậu của WMO cho biết vào cuối hôm thứ Hai .


"Chúng tôi dự đoán sự ấm áp mức vừa phải trong năm 2016, nhưng bất ngờ nó không giống như những gì chúng ta đã nhìn thấy," ông nói với Thomson của hãng tin Reuters Foundation qua điện thoại từ Geneva. Ông cho biết, nhiệt độ tăng đột ngột có thể gây nguy hiểm cho con người, động vật và hệ thống mực nước. "Nghiêm trọng hơn là một thực tế rằng những người sống trong nhiệt độ cao sẽ cố gắng làm mát bằng cách sử dụng nhiều năng lượng hơn, do đó điều này sẽ tiếp tục làm suy kiệt tài nguyên của thế giới", Carlson nói.

Câu hỏi được đặt ra đã chuyển trọng tâm từ "Khí hậu có thay đổi hay không ?" đã trở thành " Khí hậu thay đổi đến mức độ nào ?"
Ông Carlson đã kêu gọi các nhà lãnh đạo toàn cầu nên tăng cường hành động cho vấn đền này, để đưa  vào chương trình nghị sự quốc gia sau Hiệp định Paris nhằm hạn chế sự nóng lên toàn cầu dưới 2 ° C (3,6 ° F) trên mức tiền công nghiệp.

"Về thống kê, chúng tôi cần phải làm tốt hơn việc dự đoán không chỉ bằng cách thường xuyên và cường độ cao những biến cố sẽ đến và sẽ kéo dài bao lâu", chìa khóa để biết được sự thay đổi là dữ liệu thu thập trên toàn thế giới, chúng tôi có nguồn dữ liệu tốt tại khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu cũng như đối với lược mưa chẳng hạn, nhưng lại thiếu dữ liệu tại các khu vự Trung Phi, Trung Mỹ và Bắc cực. Hiện có rất ít "Các nhà lãnh đạo thế giới đưa ra cam kết nghiêm túc để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu," ông nói. Tuy nhiên, hành động ở cấp chính phủ sẽ chỉ xảy ra khi có áp lực từ chính các công dân, ông nói thêm.

"Đạo luật không khí sạch là một ví dụ, tất cả điều đó là chiến thắng của nhân dân", Carlson nói, đề cập đến một luật Hoa Kỳ được thiết lập để tăng cường kiểm soát ô nhiễm của xe và từ các nhà sản xuất.


Thế Anh
Xem chi tiết…

Trứng "Ngoài hành tinh" Được Tìm Thấy Giữa Hồ Băng

7/27/2016 02:57:00 CH |
Hai người bạn từ bang Utah đã khám phá những thứ kỳ lạ tại một hồ đóng băng khi họ vấp phải một vật thể bí ẩn ở giữa hồ.Vật thể này có hình tròn và có đường kính rộng gần 2 feet , vật thể bí ẩnđầy các lỗ nhỏ màu hơi xanh.giữa các lỗ bao gồm một thứ gì đó có màu xám kem bao phủ.
Vật thể hình tròn bí ẩn tại một hồ đóng băng  (Photo credit: YouTube screengrab: Jason Nilson)
Điều gì sẽ xảy ra nếu 6 vật thể quái dị này sẽ có một cái đầu chồi ra với hai tay, hai chân và thậm chí cả một cái đuôi?.

Bạn nghĩ gì về những thứ này ? Có thể nó thực sự một quả trứng ngoài hành tinh? các nhà khoa học và những người từ các cộng đồng khoa học có thể cho chúng ta biết đây là thứ ? Nhân loại cần câu trả lời !!! 



Nguồn: mirror.co.uk 
Xem chi tiết…

Khu Vực 51 Căn Cứ Bí Mật Bên Dưới Lòng Đất Ở Nevada

7/26/2016 10:55:00 CH |
Ẩn sâu bên dưới sa mạc ở Nevada có một căn cứ quân sự được bao bọc quá nhiều bí ẩn, đến nỗi chính phủ Mỹ thậm chí còn từ chối thừa nhận sự tồn tại của nó.
Căn cứ này được xây dựng bởi CIA(Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ) và tất cả phi công, nhân viên hàng không làm việc ở mặt đất cũng như các nhân viên khác phải rời bo3nhu74ng căn cứ quân đội đầu tiên của mình rồi tham gia cơ quan tình báo này trước khi trở thành cư dân của khu vực. Với vai trò là kho quân sự của CIA nó hoạt động độc lập với các cơ quan khác của chính phủ, đến ngày nay, những ký hiệu tại lối vào cảnh báo tất cả du khách rằng họ không có thẩm quyền để đi trong khu vực, và các đơn vị
vũ trang bảo vệ vành đai của nó. Đây được quần chúng xem là bí mật được giữ tồi tệ nhất của thế giới đĩa bay, và khu vực này hiện nay là điểm viếng thăm của những du khách ngoài hành tinh. Nơi đây được gọi là khu vực 51.

Được xây dựng vào thập niên 1950 quanh căn cứ Quân chủng Groom Lake, gần với nơi thử nghiệm vũ khí nguyên tử Nevada, khu vực 51 là nơi hoàn hảo để thực hiện những cuộc kiểm tra máy bay. Nó có bề mặt thích hợp để xây dựng đường băng, có ít cư dân sinh sống, cùng với một tai tiếng được nhiều người định cư biết đến bởi tình trang ô nhiễm hạt nhân gần đó

Ban đầu, nó được xây dựng chỉ để kiểm tra loại máy bay do thám U2, nhưng chương trình này quá thành công đến nỗi tất cả máy bay, tàu bay bí mật của Mỹ đều đước thử nghiệm tại đó.
Kích thước của căn cứ này ngày một lớn dần, tạo nên một cộng đồng nhỏ của nó, và khu vực hạ cánh đã được mở rộng dài đến gần 5 km. Máy bay siêu thanh Blackbird, Stealth được chế tạo ở khu vực này,, và vô số các thiết bị công nghệ bí mật được cất giấu trong rừng cây của căn cứ. Nhiều người tin rằng những thiết bị này đến từ một hành tinh khác.

Ban đêm, nhiều ánh sáng kỳ lạ được nhìn thấy trên bầu trời phía trên căn cứ và những người nhìn thấy tin rằng khu vực này cất giấu kho vũ khí khổng lồ dưới lòng đất.
Ban đêm, nhiều ánh sáng kỳ lạ được nhìn thấy trên bầu trời phía trên căn cứ và những người nhìn thấy tin rằng khu vực này cất giấu kho vũ khí khổng lồ dưới lòng đất.
Thông tin chi tiết hơn được kể lại từ một người đàn ông tên là Lazar, tiết lộ rằng ông ta và các nhà khoa học được thuê để tách rời một đĩa bay của người ngoài hành tinh và để xem liệu học có thể chế tạo nó bằng cách sử dụng vật liệu nhân tạo. Là một phần của công việc, các nhà khoa học này được thông báo về vai trò của người ngoài hành tinh trong lịch sử của trái đất, và có một dịp, Lazar thậm chí còn khẳng định rằng mình đã trực tiếp nhìn thấy trong giây lát một người ngoài hành tinh thực sự đang sống ở S4.
Có lần Lazar còn quyết định chống lại những người thuê mình. Tối ngày 22-3-1989, ông cùng người bạn đi ra ngoài đến đường Groom Lake và quan sát chuyến bay thử nghiệm của một chiếc đĩa bay. Tuần sau bạn của Lazar cùng 3 người khác đến thăm khu vực này,
Họ thấy một chiếc đĩa bay mà Huff mô tả giống như câu chuyện ly kỳ của đời người. Đĩa bay có ánh sang cực kỳ rực rỡ, chói lòa bay quá gần đến nỗi họ cảm thấy như mình phải di chuyển lùi về phía sau.

Tuần sau nữa, trên đường trở về nhà từ chuyến đi quan sát đĩa bay khác, nhóm của họ bị phát hiện và chặn lại bởi nhân viên bảo vệ căn cứ đang đi tuần ngoài khu vực. Ngày hôm sau Lazar bị sa thải khỏi khu vực EG & G. Sau đó ông tiết lộ rằng có 9 đĩa bay được cất giữ tại S4. Có một số thứ rất kỳ lạ diễn ra tại căn cứ thực tế hơn những thứ khác. Con đường dẫn đến lối vào của căn cứ được gọi là “Quốc lộ Qủa Phụ” vì số lượng công nhân chết do tiếp xúc với các vật liệu độc hại gây chết người ở đây là rất lớn.

Nhiều chuyên gia giả thuyết rằng khu vực này là bãi rác của những chất thải độc hại, chứ không phải là một căn cứ đĩa bay. Dù nó là gì đi nữa, các nhân viên bị ràng buộc bởi lời thề giữ bí mật tuyệt đối, và không được tiết lộ những chi tiết về công việc mà họ đã làm với bác sĩ. Điều này khiến cho vợ họ tiến hành nhiều vụ kiện chống lại chính phủ Mỹ, những người đã bác bỏ lại mọi lời buộc tội với lý lẽ rằng khu vực 51 không thực sự tồn tại. Tuy nhiên, lời phát biểu của tổng thống George Bush vào tháng 1- 2001 có ám chỉ đến “ địa điểm hoạt động gần Groom Lake,”  đây được xem là sự thừa nhận chính thức đầu tiên về sự tồn tại của khu vực 51. Nhưng tổng thống Bush cũng nói rằng khu vực này được miễn trừ các thủ tục, nguyên tắc công khai liên quan đến môi trường, nên các góa phụ vẫn đấu tranh cho vụ kiện của mình. Nhưng ít ra, giờ đây, chúng ta cũng biết được nơi này không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng.

Hình ảnh trong bộ phim Mỹ  Ngày độc lập phần 2 vừa được công chiếu tháng trước có đề cập đến căn cứ Khu Vực 51 là địa điểm chỉ huy cuối cùng của loài người để chống lại sự xâm lăng của người ngoài hành tinh.



Thế Anh

Xem chi tiết…